Lịch sử hoạt động Bell P-39 Airacobra

Airacobra tham gia chiến đấu trên khắp thế giới, đặc biệt là tại Tây Nam Thái Bình Dương, Địa Trung Hải và Đông Âu. Vì động cơ không được trang bị tăng áp, P-39 bay tốt nhất ở độ cao dưới 5.200 m (17.000 ft). Nó hay được dùng ở cao độ thấp trong vai trò tấn công mặt đất, và phi công Xô Viết thường ngưỡng mộ chiếc P-39 trang bị pháo này vì khả năng tấn công mặt đất của nó.

Anh Quốc

P-39N-1 "Saga Boy II" (42-19447)

Năm 1940, Ủy ban Mua sắm Trực tiếp Anh Quốc tại Mỹ đang tìm mua một kiểu máy bay tiêm kích; họ đặt mua 675 chiếc thuộc phiên bản xuất khẩu của chiếc Bell Kiểu 14 dưới tên gọi "Caribou" do những thế mạnh trong cuộc trình diễn của công ty vào ngày 13 tháng 4 năm 1940. Tính năng bay khá tốt của chiếc nguyên mẫu Bell P-39 cũng như 13 chiếc chế tạo để thử nghiệm, đạt được tốc độ 630 km/h (390 mph) ở tầm cao, là nhờ được trang bị bộ siêu tăng áp. Trang bị vũ khí cho Anh bao gồm 2 súng máy 0,50 in gắn trên thân và 4 súng máy 0,30 in gắn trên cánh, pháo 37 mm được thay bằng một khẩu 20 mm Hispano Suiza.

Những kiểu xuất khẩu sang Anh được đặt tên lại là "Airacobra" vào năm 1941. Thêm 150 chiếc được đặt hàng trong Chương trình Cho thuê-Cho mượn vào năm 1941 nhưng không được giao hàng. Không quân Hoàng gia Anh (RAF) nhận được máy bay vào giữa năm 1941, và họ phát hiện ra kiểu máy bay sản xuất không được trang bị bộ turbo tăng áp có tính năng bay khác biệt khá nhiều so với sự mong mỏi của họ.[14] Ở vài đặc tính, Airacobra kém hơn những máy bay sẵn có như Hawker HurricaneSupermarine Spitfire cũng như tính năng bay ở tầm cao giảm khá nhiều. Ở mặt khác, nó được xem có hiệu quả ở cao độ thấp và trong vai trò tấn công mặt đất. Những sự cố với vũ khí, hệ thống thoát khí và la bàn được giải quyết hoàn toàn.

Phi Đội 601 (thành phố London) là đơn vị Không lực Hoàng gia duy nhất sử dụng Airacobra, nhận được 2 chiếc mẫu đầu tiên ngày 6 tháng 8 năm 1941. Ngày 9 tháng 10, 4 chiếc Airacobra tấn công những vị trí đối phương tại Dunkirk, là những hoạt động chiến đấu duy nhất của chiếc này trong Không lực Hoàng gia. Phi đội tiếp tục huấn luyện với chiếc Airacobra trong suốt mùa Đông, nhưng đến tháng 3 năm 1942, họ được trang bị lại với Spitfire.

Những chiếc Airacobra đã có mặt tại Anh, cũng như phần còn lại của đợt đầu tiên sản xuất tại Mỹ, sau đó được gửi cho Không quân Xô Viết.

Hoa Kỳ

Mỹ trưng dụng 200 chiếc của phần đặt hàng tiếp sau dưới tên gọi P-400, tên này có nguồn gốc quảng cáo rằng nó đạt được tốc độ tối đa 600 km/h (400 mph). Sau Trận chiến Trân Châu Cảng, P-400 được bố trí cho các đơn vị huấn luyện, nhưng có một số tham gia chiến đấu tại Tây Nam Thái Bình Dương bao gồm Không lực Cactus trong trận Guadalcanal.[15] Súng tận dụng từ những chiếc P-39 đôi khi được gắn trên những tàu PT Hải quân để tăng cường hỏa lực.[16]

Từ tháng 9 đến tháng 11 năm 1942 phi công thuộc Phi đội Tiêm kích 57 bay những chiếc P-39 và P-38, cất cánh từ những sân bay tạo thành bằng cách san lấp đất xuống vịnh Kuluk trên đảo Adak khô cằn trong quần đảo Aleut thuộc Alaska. Họ tấn công lực lượng Nhật Bản đã xâm chiếm các đảo Attu và Kiska thuộc quần đảo Aleut vào tháng 6 năm 1942. Kẻ thù số một gây tổn thất nhân mạng nhiều nhất lại không phải là quân Nhật mà là thời tiết. Mây thấp, sương mù, mưa, tuyết, gió mạnh làm cho việc lái máy bay rất nguy hiểm. Phi Đội 57 ở lại Alaska cho đến tháng 11 năm 1942 rồi được rút về lục địa Mỹ.

Bell P-39 Airacobra đang bay, khai hỏa tất cả vũ khí vào ban đêm

Liên Xô

Việc sử dụng P-39 thành công nhất trong chiến tranh thuộc về các phi công của Không quân Xô Viết (VVS). Hoàn cảnh chiến thuật của Mặt trận Xô-Đức không đòi hỏi hoạt động trên cao độ cực cao mà Không quân Hoàng gia và Không lực Hoa Kỳ phải thực hiện với các máy bay ném bom lớn của họ. Điểm yếu cố hữu của P-39 là thiếu một bộ tăng áp, nhưng với những hoạt động ở độ cao tương đối thấp của mặt trận phía Đông, đó không phải là khuyết điểm lớn. Tính chất lượn vòng thấp và tốc độ chậm trong đa số các cuộc không chiến phù hợp với đặc tính của chiếc P-39: kết cấu vững chắc, thiết bị liên lạc tin cậy và hỏa lực đủ mạnh. Phi công Xô Viết thường tháo bỏ các khẩu súng máy trên cánh và chỉ dựa vào hỏa lực của khẩu pháo và súng máy gắn trên mũi. "Ách" ghi được chiến công nhiều thứ hai trong tất cả các nước Đồng Minh, Aleksandr Pokryshkin, lái chiếc P-39 từ cuối năm 1942 cho đến hết chiến tranh; thành tích không chính thức của anh trên chiếc Airacobra là gần 60 máy bay Đức. Đồng đội của anh, Grigori Rechkalov, ghi 57 chiến công với chiếc P-39. Đây là chiến công cao nhất ghi được trên một kiểu máy bay của Mỹ. P-39 được phi công Xô Viết ưa thích, họ đặt tên lóng cho chiếc Airacobra là Kobrusha, "Cobra bé nhỏ yêu quý".

Australia

Đầu năm 1942, Không quân Hoàng gia Australia (RAAF), sau khi bị quân Nhật không kích vào các thành phố phía Bắc, nhận ra rằng họ không kịp trang bị những máy bay tiêm kích do Anh chế tạo, và không đủ số lượng máy bay P-40. Các phi đội thuộc Không Lực 5 Hoa Kỳ đóng tại Australia lúc đó đã nhận được những chiếc P-39D-1 hoàn toàn mới.[17] Đến tháng 7 năm 1942, những chiếc P-39D cũ, bị hư hại trong chiến đấu và được tân trang lại tại các xưởng Australia được Không quân Hoàng gia Australia sử dụng như là giải pháp tạm thời.

Bảy chiếc P-39D được gửi đến Phi Đội 23 Hoàng gia tại Lowood, Queensland. Sau đó, bảy chiếc P-39F cũng được Phi Đội 24 Hoàng gia đưa ra hoạt động tại Townsville. Trong hoàn cảnh thiếu tiếp liệu cần thiết cho P-39, các phi đội này cũng sử dụng những chiếc máy bay huấn luyện Wirraway được vũ trang. Tuy nhiên, cả hai phi đội đều không được trang bị đầy đủ máy bay Airacobra, hay có dịp đưa ra chiến đấu. Vai trò phòng không ngoài tiền tuyến được giao cho các phi đội P-40, và sau đó bởi Spitfire. Kế hoạch trang bị thêm P-39 cho hai phi đội nữa cũng bị bãi bỏ. Các phi đội 23 và 24 chuyển sang sử dụng Vultee Vengeance vào năm 1943.

Pháp

Năm 1940, Pháp đặt mua từ hãng Bell nhiều chiếc P-39, nhưng do sự kiện ngừng bắn với Đức chúng không được giao hàng. Tuy nhiên, những chiếc P-39N được giao cho các đơn vị Pháp Tự Do tại Bắc Phi năm 1943. Hai phi đội tiêm kích, GC 3/6 Roussillon và GC 1/5 Champagne, sử dụng chúng trong chiến đấu. Sau đó, một lô máy bay P-39Q cũng được giao hàng, nhưng vì Airacobra không thân thuộc với các phi công Pháp, chúng được thay thế bởi P-47 tại các đơn vị tiền phương vào cuối năm 1944.

Italia

Tháng 6 năm 1944, Liên đội 223 thuộc Không lực Italia Co-Belligerent (ICAF) nhận được khoảng 150 chiếc P-39, hầu như đều là phiên bản N và Q, nhưng có ít nhất một chiếc L và năm chiếc M. Việc huấn luyện được thực hiện trên những chiếc P-39N (những chiếc phiên bản N đã có hơn 200 giờ bay) trong khi những chiếc Q hiện đại hơn được sử dụng tại tiền tuyến. Ba trong số bốn phi đội được huấn luyện tại một sân bay nhỏ và được duy tu kém gần Vesuvio, sau đó được gửi đến sân bay Galatina vào mùa thu năm 1944. Có ít nhất 19 tai nạn đã xảy ra trong huấn luyện; và trong số các nạn nhân là Teresio Martinoli, một phi công "Ách" với 22 chiến công, thiệt mạng ngày 25 tháng 8 năm 1944 trong một máy bay Đồng Minh sau bốn năm chiến đấu.

Có khoảng 70 máy bay được đưa ra hoạt động, và vào ngày 18 tháng 9 năm 1944, 12 chiếc P-39 thực hiện phi vụ đầu tiên tại Albania. Tập trung vào vai trò tấn công mặt đất và tích lũy hơn 3.000 giờ bay chiến đấu, bị mất 10 máy bay do hỏa lực phòng không Đức, những chiếc P-39 Italia tỏ ra phù hợp cho nhiệm vụ này.[18]

Bồ Đào Nha

Giữa tháng 12 năm 1942tháng 2 năm 1943, Không lực Lục quân Bồ Đào Nha (Aeronáutica Militar) chiếm được những chiếc máy bay vốn do các không đoàn 81 và 350 được bố trí sang Bắc Phi trong Chiến dịch Torch. Vì nhiều vấn đề xảy trên đường đi, một số máy bay bị buộc phải hạ cánh xuống Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. 19 máy bay tiêm kích hạ cánh xuống Bồ Đào Nha đều bị chiếm giữ và đưa vào sử dụng trong Quân đội Bồ Đào Nha, bắt đầu với năm chiếc P-39 của Không đoàn Tiêm kích 81 hạ cánh ngày 27 tháng 12 năm 1942 tại sân bay Lisbon.[19]

Mặc dù việc chiếm dụng những máy bay này là do hạ cánh trên đất Bồ Đào Nha, Chính phủ Bồ Đào Nha vẫn yêu cầu được mua lại những máy bay đã chiếm dụng cho đến năm 1943.[20] Ngày 26 tháng 4 năm 1943, Hoa Kỳ chấp thuận bán với giá 20.000 đô la mỗi chiếc cho 16 chiếc Airacobras và một chiếc P-38 Lightning nguyên vẹn, và cho không như là quà tặng bốn xác máy bay khác, hai trong số đó hư hại không quá lớn. Tuy nhiên, người Mỹ từ chối cung cấp phụ tùng thay thế.[21]

Việc sử dụng P-39 trong Không lực Bồ Đào Nha lên đến cao điểm vào năm 1944, khi 14 chiếc Airacobra tham gia vào cuộc tập trận bao gồm nhiều binh chủng tại Ota. Tuy nhiên, do thiếu các tài liệu hướng dẫn bay và bảo trì khiến việc sử dụng chúng đưa đến nhiều tai nạn, hầu hết là liên quan đến động cơ. Lịch sử hoạt động của P-39 tại Bồ Đào Nha không dài, với sáu chiếc Airacobra còn lại được sử dụng cho đến khi nghỉ hưu vào năm 1950, khi chúng được đem bán phế thải.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Bell P-39 Airacobra http://www.acepilots.com/planes/p39_airacobra.html http://www.acepilots.com/planes/soviet_p39_airacob... http://www.adf-serials.com/research/Airacobra.pdf http://home.att.net/~C.C.Jordan/XP-39.html http://home.att.net/~jbaugher1/p39.html http://home.att.net/~jbaugher1/p39_5.html http://www.microworks.net/pacific/aviation/fl_aira... http://web.archive.org/20000415004709/www.geocitie... http://www.quarry.nildram.co.uk/WW2guneffect.htm https://commons.wikimedia.org/wiki/P-39_Airacobra?...